Tony Buổi Sáng - Điền vào dấu ba chấm.

Đại suy thoái tại Mỹ và ảnh hưởng của nó với thế giới

Đại suy thoái tại Mỹ

Cuộc Đại suy thoái là cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu tàn phá thị trường tài chính thế giới cũng như ngành ngân hàng và bất động sản. Cuộc khủng hoảng đã dẫn đến sự gia tăng các vụ tịch thu tài sản thế chấp bằng thế chấp nhà trên toàn thế giới và khiến hàng triệu người mất tiền tiết kiệm cả đời, công việc và nhà cửa. Đây thường được coi là thời kỳ suy thoái kinh tế dài nhất kể từ cuộc Đại suy thoái những năm 1930. Mặc dù ảnh hưởng của nó chắc chắn mang tính chất toàn cầu, nhưng cuộc Đại suy thoái rõ ràng nhất là ở Hoa Kỳ – nơi nó bắt nguồn từ cuộc khủng hoảng thế chấp dưới chuẩn – và ở Tây Âu.

Đại suy thoái tại Mỹ

Suy thoái là gì?

Suy thoái kinh tế là sự suy giảm hoặc trì trệ trong tăng trưởng kinh tế, nhưng các chỉ số kinh tế dùng để định nghĩa thuật ngữ “suy thoái” đã thay đổi theo thời gian.

Kể từ cuộc Đại suy thoái, Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) đã mô tả “suy thoái toàn cầu” là sự suy giảm tổng sản phẩm quốc nội (GDP) bình quân đầu người trên thế giới thực tế, được hỗ trợ bởi các chỉ số kinh tế vĩ mô khác như sản xuất công nghiệp, thương mại, tiêu thụ dầu. và thất nghiệp trong thời gian ít nhất hai quý liên tiếp.

Theo định nghĩa đó, tại Hoa Kỳ, cuộc Đại suy thoái bắt đầu vào tháng 12 năm 2007. Từ thời điểm đó, cho đến khi sự kiện này kết thúc, GDP giảm 4,3% và tỷ lệ thất nghiệp lên tới 10%.

Nguyên nhân của cuộc suy thoái

Cuộc Đại suy thoái—đôi khi được gọi là Cuộc suy thoái năm 2008—ở Hoa Kỳ và Tây Âu có liên quan đến cái gọi là “cuộc khủng hoảng thế chấp dưới chuẩn”.

Các khoản thế chấp dưới chuẩn là các khoản vay mua nhà được cấp cho những người đi vay có lịch sử tín dụng kém. Các khoản vay mua nhà của họ được coi là các khoản vay có rủi ro cao.

Với sự bùng nổ nhà đất ở Hoa Kỳ vào đầu đến giữa những năm 2000, những người cho vay thế chấp tìm cách tận dụng giá nhà tăng đã ít hạn chế hơn về đối tượng người vay mà họ chấp thuận cho vay. Và khi giá nhà đất tiếp tục tăng ở Bắc Mỹ và Tây Âu, các tổ chức tài chính khác đã mua hàng nghìn khoản thế chấp rủi ro này với số lượng lớn (thường dưới dạng chứng khoán đảm bảo bằng thế chấp) như một khoản đầu tư với hy vọng thu được lợi nhuận nhanh chóng.

Tuy nhiên, những quyết định này sẽ sớm trở thành thảm họa.

Cuộc khủng hoảng cho vay nặng lãi

Mặc dù thị trường nhà đất ở Hoa Kỳ vào thời điểm đó vẫn còn khá phát triển, nhưng mọi chuyện đã kết thúc khi công ty cho vay thế chấp dưới chuẩn New Century Financial tuyên bố phá sản vào tháng 4 năm 2007. Vài tháng trước đó, vào tháng 2, Tập đoàn Thế chấp Cho vay Mua nhà Liên bang (Freddie Mac) tuyên bố sẽ không mua các khoản thế chấp dưới chuẩn rủi ro hoặc chứng khoán liên quan đến thế chấp nữa.

Không có thị trường cho các khoản thế chấp mà mình sở hữu và do đó không có cách nào để bán chúng để thu lại khoản đầu tư ban đầu, New Century Financial đã sụp đổ. Chỉ vài tháng sau, vào tháng 8 năm 2007, American Home Mortgage Investment Corp. trở thành công ty cho vay thế chấp lớn thứ hai phá sản dưới áp lực của cuộc khủng hoảng dưới chuẩn và thị trường nhà đất suy thoái khi công ty này bước vào giai đoạn phá sản.

Mùa hè năm đó, các dịch vụ xếp hạng tín dụng của Standard and Poor’s và Moody’s đều công bố ý định giảm xếp hạng của hơn 100 trái phiếu được đảm bảo bằng các khoản thế chấp dưới chuẩn thế chấp thứ hai. Standard and Poor’s cũng đặt hơn 600 chứng khoán được đảm bảo bằng các khoản thế chấp nhà ở dưới chuẩn vào danh sách “theo dõi tín dụng”.

TÀI TRỢ

Đến lúc đó, khi cuộc khủng hoảng dưới chuẩn tiếp tục, giá nhà đất trên toàn quốc bắt đầu giảm do có quá nhiều nhà mới trên thị trường, nên hàng triệu chủ sở hữu nhà—và những người cho vay thế chấp của họ—đột nhiên bị “ngập nước”, nghĩa là nhà của họ bị định giá. ít hơn tổng số tiền cho vay của họ.

Fed giảm lãi suất

Điều thú vị là vào ngày 9 tháng 10 năm 2007, thị trường chứng khoán Mỹ đạt mức cao nhất mọi thời đại khi chỉ số trung bình công nghiệp Dow Jones vượt quá 14.000 lần đầu tiên trong lịch sử.

Tuy nhiên, điều đó sẽ đánh dấu chút tin tốt cuối cùng cho nền kinh tế Mỹ trong một thời gian.

Trong 18 tháng tiếp theo, chỉ số Dow sẽ mất hơn một nửa giá trị, tụt xuống mức 6.547 điểm. Kết quả là, hàng trăm nghìn người Mỹ, những người đã đầu tư một phần đáng kể số tiền tiết kiệm được vào thị trường chứng khoán, đã phải gánh chịu những tổn thất tài chính thảm khốc.

Quả thực, trong suốt cuộc Đại suy thoái, giá trị ròng của các hộ gia đình và tổ chức phi lợi nhuận ở Mỹ đã giảm hơn 20% từ mức cao 69 nghìn tỷ USD vào mùa thu năm 2007 xuống còn 55 nghìn tỷ USD vào mùa xuân năm 2009 – một sự mất mát một phần 14 nghìn tỷ USD.

Gói kích cầu

Tất nhiên, giảm lãi suất mục tiêu không phải là điều duy nhất Fed và chính phủ Mỹ làm để chống lại cuộc Đại suy thoái và giảm thiểu tác động của nó đối với nền kinh tế.

Vào tháng 2 năm 2008, Tổng thống George W. Bush đã ký cái gọi là Đạo luật Kích thích Kinh tế thành luật. Đạo luật này cung cấp cho người nộp thuế các khoản giảm giá ($600 đến $1.200) mà họ được khuyến khích chi tiêu; giảm thuế; và tăng giới hạn cho vay đối với các chương trình cho vay mua nhà của liên bang (ví dụ: Fannie Mae và Freddie Mac).

Yếu tố cuối cùng này được thiết kế với hy vọng sẽ tạo ra doanh số bán nhà mới và thúc đẩy nền kinh tế. Cái gọi là “Gói kích thích” cũng cung cấp cho các doanh nghiệp những ưu đãi tài chính để đầu tư vốn.

Quá lớn để thất bại

Tuy nhiên, ngay cả với những can thiệp này, những khó khăn kinh tế của đất nước vẫn chưa kết thúc. Vào tháng 3 năm 2008, ngân hàng đầu tư khổng lồ Bear Stearns sụp đổ sau khi quy những rắc rối tài chính của mình cho các khoản đầu tư vào các khoản thế chấp dưới chuẩn, và tài sản của nó đã được JP Morgan Chase mua lại với mức giá cắt giảm.

Vài tháng sau, gã khổng lồ tài chính Lehman Brothers tuyên bố phá sản vì những lý do tương tự, tạo ra vụ nộp đơn phá sản lớn nhất trong lịch sử Hoa Kỳ. Chỉ vài ngày sau thông báo của Lehman Brothers, Fed đã đồng ý cho công ty bảo hiểm và đầu tư AIG vay khoảng 85 tỷ USD để công ty này có thể tiếp tục hoạt động.

Các nhà lãnh đạo chính trị biện minh cho quyết định này, nói rằng AIG “quá lớn để thất bại” và sự sụp đổ của nó sẽ gây bất ổn hơn nữa cho nền kinh tế Mỹ.

Chương trình TARP

Với lo ngại rằng những sự sụp đổ tương tự có thể xảy ra với các công ty tài chính và ngân hàng lớn khác, Tổng thống Bush đã phê chuẩn Chương trình cứu trợ tài sản gặp khó khăn (TARP) vào tháng 10 năm 2008. Về cơ bản, TARP đã cung cấp cho chính phủ Hoa Kỳ 700 tỷ đô la để mua tài sản của các công ty đang gặp khó khăn ở để giữ họ tiếp tục kinh doanh. Các thỏa thuận này sẽ cho phép chính phủ bán những tài sản này sau này với hy vọng thu được lợi nhuận.

Trong vòng vài tuần, chính phủ đã chi 125 tỷ USD từ quỹ TARP để mua lại tài sản từ 9 ngân hàng Mỹ. Đầu năm 2009, quỹ TARP cũng được sử dụng để bảo lãnh cho các nhà sản xuất ô tô General Motors và Chrysler (tổng cộng 80 tỷ USD) và ngân hàng khổng lồ Bank of America (125 tỷ USD).

Tháng 1 năm 2009 cũng mang đến một chính quyền mới ở Nhà Trắng , đó là của Tổng thống Barack Obama. Tuy nhiên, tân tổng thống vẫn phải giải quyết nhiều vấn đề tài chính cũ.

Trong vài tuần đầu tiên nhậm chức, Tổng thống Obama đã ký “Gói kích thích” thứ hai thành luật, lần này dành riêng 787 tỷ USD để cắt giảm thuế cũng như chi tiêu cho cơ sở hạ tầng, trường học, chăm sóc sức khỏe và năng lượng xanh.

Liệu những sáng kiến ​​này có dẫn đến sự kết thúc của cuộc Đại suy thoái hay không vẫn còn là vấn đề tranh luận. Tuy nhiên, ít nhất về mặt chính thức, Cục Nghiên cứu Kinh tế Quốc gia (NBER) xác định rằng, dựa trên các chỉ số kinh tế quan trọng (bao gồm tỷ lệ thất nghiệp và thị trường chứng khoán), cuộc suy thoái ở Hoa Kỳ đã chính thức kết thúc vào tháng 6 năm 2009.

Hậu quả của cuộc Đại suy thoái

Mặc dù cuộc Đại suy thoái đã chính thức kết thúc ở Hoa Kỳ vào năm 2009, nhưng đối với nhiều người dân ở Hoa Kỳ và các nước khác trên thế giới, những ảnh hưởng của cuộc suy thoái vẫn còn tồn tại trong nhiều năm nữa.

Thật vậy, từ năm 2010 đến năm 2014, nhiều quốc gia châu Âu – bao gồm Ireland, Hy Lạp, Bồ Đào Nha và Síp – đã vỡ nợ quốc gia, buộc Liên minh châu Âu phải cung cấp cho họ các khoản vay “cứu trợ” và các khoản đầu tư tiền mặt khác.

Các quốc gia này cũng bị buộc phải thực hiện các biện pháp “thắt lưng buộc bụng” – chẳng hạn như tăng thuế và cắt giảm các chương trình phúc lợi xã hội (bao gồm cả chương trình chăm sóc sức khỏe và hưu trí) – để trả nợ.

Đạo luật Dodd-Frank

Cuộc Đại suy thoái cũng mở ra một thời kỳ mới về quy định tài chính ở Hoa Kỳ và các nơi khác. Các nhà kinh tế đã lập luận rằng việc bãi bỏ quy định thời kỳ suy thoái được gọi là Đạo luật Glass-Steagall vào những năm 1990 đã góp phần gây ra các vấn đề gây ra suy thoái kinh tế.

Trong khi sự thật có lẽ phức tạp hơn thế, việc bãi bỏ Đạo luật Glass-Steagall, vốn có từ năm 1933, đã cho phép nhiều tổ chức tài chính lớn hơn của đất nước hợp nhất, tạo ra các công ty lớn hơn nhiều. Điều này tạo tiền đề cho các gói cứu trợ “quá lớn để thất bại” của chính phủ dành cho nhiều công ty này.

Đạo luật Dodd-Frank , được Tổng thống Obama ký thành luật năm 2010, được thiết kế để khôi phục ít nhất một phần quyền lực điều tiết của chính phủ Hoa Kỳ đối với ngành tài chính.

Dodd-Frank cho phép chính phủ liên bang nắm quyền kiểm soát các ngân hàng được cho là đang trên bờ vực sụp đổ tài chính và bằng cách thực hiện nhiều biện pháp bảo vệ người tiêu dùng khác nhau được thiết kế để bảo vệ các khoản đầu tư và ngăn chặn tình trạng “cho vay cắt cổ”—các ngân hàng cung cấp các khoản vay lãi suất cao cho những người đi vay có khả năng sẽ phá sản. gặp khó khăn trong việc thanh toán.

Sau khi ông nhậm chức, Tổng thống Donald Trump và một số thành viên Quốc hội đã thực hiện nhiều nỗ lực nhằm loại bỏ các phần quan trọng của Đạo luật Dodd-Frank, đạo luật sẽ loại bỏ một số quy tắc bảo vệ người Mỹ khỏi một cuộc suy thoái khác.

Xem thêm: Người kiếm nhiều tiền thời kỳ suy thoái

Cảm ơn đã đọc rất vui khi các bạn chia sẽ bài viết cho mọi người xem

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *